Tác giả: Cha Karl Rahner
Chuyển ngữ: Giám mục Gioan Đỗ Văn Ngân
Vừa khi chủ đề ‘kiên nhẫn’ được đề cập, người ta được nhắc nhớ ngay một trong các ngôn từ khai mở mà Cyprianô thành Carthagô dùng dẫn vào khảo luận ‘Lòng Kiên Nhẫn’ mười bảy thế kỷ trước. Ngôn từ tạo nên hiệu quả những người nghe phải vốn có điều người nói cố gắng khuyên họ, cụ thể là ‘kiên nhẫn’, vì không có kiên nhẫn, diễn giả chẳng có một thính giả nào. Thực sự, nếu một người hoàn toàn bất kiên nhẫn, xét bất cứ phương diện nào, sẽ chẳng bao giờ thu hoạch được gì, vì chính hành vi thu hoạch tự nó đòi kiên nhẫn dài lâu. Do đó, một số mức độ kiên nhẫn phải được kể đến giữa những thái độ căn bản của hữu thể người, loại kiên nhẫn bắt rễ sâu trong bản tính người. Lý do là trong mức nào đó, nó phải gánh chịu chính nó. Nó vốn phải có đó để được tập trung lại. Nó vốn phải sẵn trong tay để những mức độ kiên nhẫn cao hơn được thực hiện sau đó.
Kiên nhẫn phát sinh từ nền tảng bản tính hữu thể người, cụ thể, một người vừa được phú bẩm là một tinh thần và đồng thời là một chủ thể lệ thuộc giới hạn thời gian. Những hữu thể mang bản tính vĩnh cửu chẳng cần kiên nhẫn. Họ chẳng hoàn thành cái gì hoàn hảo hơn hiện trạng của họ. Họ chẳng tìm kiếm gì hơn, vì nguyên chỉ phẩm chất vĩnh cửu họ được phú bẩm có nghĩa là bản tính của họ vốn trong tình trạng của cái tròn đầy và hoàn hảo nội tại.
Những hữu thể không mang tinh thần không cần kiên nhẫn vì ‘ý thức’ của chúng luôn giới hạn trong hiện tại, và rõ ràng, do sự kiện ấy, chúng chẳng biết gì về cái đổi thay liên tục từ quá khứ sang vị lai, đang ảnh hưởng trên chúng, ngay cả chính chúng đang không ngừng gánh chịu tiến trình phát triển và đổi thay.
Phần chúng ta, những hữu thể vừa được phú bẩm trí năng vừa tuỳ thuộc thời gian. Chúng ta mang quá khứ nơi mình, và trong năng lực nhận thức, chúng ta đã đạt tới cái còn chưa tới trong tương lai. Thực sự, một cách ý thức, chúng ta sống trải qua tiến trình đổi thay mà chính chúng ta lệ thuộc. Sự tác động lẫn nhau giữa quá khứ và tương lai giúp nắm bắt được thực tại, làm nên kinh nghiệm của chúng ta. Không chỉ chúng ta không thể lấy lại được tiến trình chuyển giao và đổi thay, mà cũng không thể giấu giếm trước bản thân nỗi bất khả thực hiện điều ấy.
Hiện hữu của chúng ta được điều khiển duy bởi quy trình liên tục của đổi thay. Chúng ta có năng lực nhìn thấy chính hiện hữu của chúng ta như một toàn thể, và nhận thức như quy luật của chính bản tính chúng ta là nó phải không ngừng áp lực đưa hiện hữu của chúng ta phát triển thêm nữa. Nhận thức và chấp nhận sự kiện đó là cái chúng ta gọi là ‘sự kiên nhẫn hiện sinh’, sự kiên nhẫn thuộc bình diện hiện sinh. Chúng ta kiên nhẫn chấp nhận sự kiện hiện sinh chúng ta tuỳ thuộc vào đổi thay như thế đó, nhưng nó duy trì tính thống nhất xuyên suốt quy trình đổi thay.
Chính sự kiện chúng ta thuộc loại hữu thể đó và không thể né tránh hiện hữu như thế, nghĩa là chúng ta mang loại bản tính đó và không thể trốn khỏi nó, là thực tại, một lần nữa, đặt chúng ta vào một bổn phận phải chu toàn, bổn phận mà chúng ta có thể không đạt, cái gì đó chúng ta phải làm cho chính mình, bằng nỗ lực can đảm và trung tín, một cách ý thức và thận trọng trung thực với bản tính của chính chúng ta nhằm hoàn thành chính nó. Đối với người được phú bẩm tự do và năng lực tinh thần, trong khi kiến tạo mình, có những yếu tố đã được ban, không thể tránh né, và không thể trốn thoát được, và đồng thời có những yếu tố khác, những yếu tố nhiệm mầu và không tiên báo được. Thực tại đó đặt người ấy vào bổn phận lấy tự do đáp lại.
Vậy mỗi cá nhân phải trong ý thức và tự do đi về đích, với phẩm tính đặc biệt trong bản tính của mình. Người ấy phải nhận biết và chấp nhận mình như một hữu thể tuỳ thuộc vào sự đổi thay liên tục và nhắm về mục đích, đồng thời được phú bẩm sự nhận thức. Người ấy phải không được giả thiết mình có thể làm gián đoạn sự đổi thay này, cũng phải không được thử đưa mình trở về giai đoạn mình đã đạt được, cũng phải không thể hấp tấp thử trước giai đoạn còn chờ người ấy trong tương lai. Nói cách khác, người ấy phải kiên nhẫn chấp nhận sự đổi thay hiện sinh mà người ấy lệ thuộc vào để đạt đúng cái mình là, và nhận thức rằng có lý hữu và có hướng tới một mục đích. Chỉ có thể nói người ấy kiên nhẫn khi trải qua sự kiên nhẫn hiện sinh chúng ta đang đề cập.
Vấn đề cần phải hiểu là: Điều một cá nhân phải nhận thức và chấp nhận, với loại kiên nhẫn căn cơ này, không đơn giản là những yếu tố nảy sinh đây đó trong đời, một cách trái ý, và xem ra đối với người ấy, là một mảng của phần số vô nghĩa, từ bên ngoài áp đặt trên người ấy… Điều người ấy phải kiên nhẫn khoan thứ và chịu đựng ở mức sâu nhất và căn cơ nhất hơn là chính mình, ‘cái chính mình’ được nhìn nhận như một người trên hành trình về một tương lai, một người không thể dừng chân và lưu lại nơi mình ở, cũng không thể giả định người ấy đang đăng trình về một điểm đến trống không, vô định, mà chẳng có điểm đến uyên nguyên nào… Nỗi bất kiên nhẫn của chúng ta vì những phiền toái hằng ngày, đơn giản là dấu chỉ sự kiện rằng ở bình diện sâu xa hơn của cuộc sống, chúng ta không thành công trong việc đạt được trong tự do đức tính kiên nhẫn hiện sinh và luyện nó thành của mình.
Có những người tìm cách bám vào hoàn cảnh của lúc này với những thú vui, những thành công, cái xem ra tự mãn, dù tất cả, xét theo bản tính của chúng, rõ ràng là nhất thời bèo bọt… Có những người không thể buông trôi cái thuộc hôm qua tới khi cái thuộc ngày mai được chứng minh là không tác hại và có sức trấn an. Có những người không thể tự do bước vào tình huống mới xem ra hóc búa hơn hay ít triển vọng, những người không thể tự tin đi vào ‘màn đêm’ hay vào cái còn dưới sự kiểm soát của người khác. Có những người hoảng sợ trước sức mạnh lặng thinh bao trùm và kiểm soát đời ta, và sức mạnh lặng thinh là Thiên Chúa, dẫu rằng chỉ một mình Người biết và định khi nào cái hiện sinh phù du này khởi sự và khi nào nó sẽ kết thúc. Tất cả tựa như những người không thể lĩnh hội được cho mình cái đức kiên nhẫn hiện sinh. Họ để lộ sự kiện họ không thể sở hữu đức tính này bằng sự bất kiên nhẫn biểu lộ trong những hoàn cảnh thường nhật, khi họ phạm khuyết điểm, gặp nỗi xót đau và cực nhọc vất vả, vốn thuộc phận người, ngay cả trong những chuyện thường nhật nhất mỗi ngày. |